Các nghiên
cứu trên diện rộng chỉ ra rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ số bệnh
nhân bị phát hiện có u não gia tăng trong khoảng thời gian 10 năm qua,
khi việc sử dụng điện thoại trở lên phổ biến.
Những bằng chứng khoa học của nghiên cứu mới được công bố hôm 2/7 vừa
qua chỉ ra có rất ít mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và
việc phát sinh các khối u não.
Kết quả kiểm tra nghiên cứu được công bố trước đó do hội đồng các chuyên
gia đến từ Anh, Mỹ và Thụy Điển tiến hành cho thấy không có bằng chứng
thuyết phục nào về mối liên hệ gây ra ung thư và cũng không có đủ cơ chế
sinh học để các tín hiệu radio từ máy điện thoại gây ra các khối u.
Chuyên gia này cho biết trên báo Viễn cảnh Sức khỏe Môi trường “Mặc dù
vẫn còn chưa chắc chắn, nhưng xu hướng của các bằng chứng thu thập được
đang ngày càng chống lại giả thuyết việc sử dụng điện thoại di động có
thể gây khối u não ở người lớn”.
Bài báo này được đưa ra chỉ 2 tháng sau khi Cơ quan Nghiên cứu Ung thư
Quốc tế (IARC) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khẳng định sử dụng điện
thoại di động “có thể gây ung thư ở người.”
Anthony Swerdlow thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Anh phát biểu trên
Reuters rằng thực ra 2 thông báo này không thực sự đối lập nhau, vì IARC
cần đặt điện thoại di động vào nhóm các rủi ro được xác định trước.
Việc sử dụng điện thoại di động đang tăng rất nhanh kể từ những năm đầu
thập niên 1980, với gần 5 tỷ máy điện thoại cầm tay và việc tranh cãi
về mối liên hệ tiềm tàng của nó với những loại khối u não, u thần kinh
đệm, u màng não cũng không giải quyết được vấn đề gì.
Nghiên cứu gần nhất tính đến thời điểm này, được công bố vào năm ngoái
đã thực hiện trên khoảng 13.000 người dùng di động trong vòng 10 năm
Swerdlow cùng các cộng sự đã phân tích chi tiết các kết quả của nghiên
cứu này và đưa ra kết luận rằng nó không tìm được câu trả lời rõ ràng
nào và có một vài vấn đề về phương pháp, vì còn phụ thuộc vào phỏng vấn
và các câu hỏi chủ yếu gợi nhớ về việc sử dụng điện thoại cách đây một
vài năm.
Và đặc biệt, các nghiên cứu từ các nước khác chỉ ra không có bằng chứng
nào chứng tỏ việc tăng các khối u não trong 20 năm sau khi xuất hiện
điện thoại di động và 10 sau khi việc sử dụng điện thoại trở lên phổ
biến, nhóm phân tích cho biết thêm.
David Spiegelhalter, Giáo sư của khoa Hiểu biết công về các rủi ro tại
đại học Cambridge, người không tham gia vào nghiên cứu này cho biết:
“Đây là một vấn đề rất khó nghiên cứu”.
“Ngoài những hạn chế của các chứng cứ, báo cáo này còn cho thấy các rủi
ro dường như là quá nhỏ vì vậy rất khó phát hiện ra chúng- thậm chí
trong một số lượng lớn người hiện đang sử dụng điện thoại di động”.
Ông Swerdlow là giám đốc Ban thường trực dịch tễ học của Ủy ban Quốc Tế
về Phòng chống Phóng xạ phi Ion hóa. Ủy ban này là một tổ chức quốc tế
được WHO công nhận, nhằm đưa ra các hướng dẫn hạn chế phóng xạ phi ion
hóa.
Vì điện thoại di động đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong
đời sống hàng ngày, no được rất nhiều người sử dụng để lướt web cũng
như trao đổi, nên các chuyên gia cho rằng mối đe dọa về sức khỏe dường
như không thể ngăn mọi người dừng sử dụng chúng.
cứu trên diện rộng chỉ ra rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ số bệnh
nhân bị phát hiện có u não gia tăng trong khoảng thời gian 10 năm qua,
khi việc sử dụng điện thoại trở lên phổ biến.
Những bằng chứng khoa học của nghiên cứu mới được công bố hôm 2/7 vừa
qua chỉ ra có rất ít mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và
việc phát sinh các khối u não.
Kết quả kiểm tra nghiên cứu được công bố trước đó do hội đồng các chuyên
gia đến từ Anh, Mỹ và Thụy Điển tiến hành cho thấy không có bằng chứng
thuyết phục nào về mối liên hệ gây ra ung thư và cũng không có đủ cơ chế
sinh học để các tín hiệu radio từ máy điện thoại gây ra các khối u.
Chuyên gia này cho biết trên báo Viễn cảnh Sức khỏe Môi trường “Mặc dù
vẫn còn chưa chắc chắn, nhưng xu hướng của các bằng chứng thu thập được
đang ngày càng chống lại giả thuyết việc sử dụng điện thoại di động có
thể gây khối u não ở người lớn”.
Bài báo này được đưa ra chỉ 2 tháng sau khi Cơ quan Nghiên cứu Ung thư
Quốc tế (IARC) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khẳng định sử dụng điện
thoại di động “có thể gây ung thư ở người.”
Anthony Swerdlow thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Anh phát biểu trên
Reuters rằng thực ra 2 thông báo này không thực sự đối lập nhau, vì IARC
cần đặt điện thoại di động vào nhóm các rủi ro được xác định trước.
Việc sử dụng điện thoại di động đang tăng rất nhanh kể từ những năm đầu
thập niên 1980, với gần 5 tỷ máy điện thoại cầm tay và việc tranh cãi
về mối liên hệ tiềm tàng của nó với những loại khối u não, u thần kinh
đệm, u màng não cũng không giải quyết được vấn đề gì.
Nghiên cứu gần nhất tính đến thời điểm này, được công bố vào năm ngoái
đã thực hiện trên khoảng 13.000 người dùng di động trong vòng 10 năm
Swerdlow cùng các cộng sự đã phân tích chi tiết các kết quả của nghiên
cứu này và đưa ra kết luận rằng nó không tìm được câu trả lời rõ ràng
nào và có một vài vấn đề về phương pháp, vì còn phụ thuộc vào phỏng vấn
và các câu hỏi chủ yếu gợi nhớ về việc sử dụng điện thoại cách đây một
vài năm.
Và đặc biệt, các nghiên cứu từ các nước khác chỉ ra không có bằng chứng
nào chứng tỏ việc tăng các khối u não trong 20 năm sau khi xuất hiện
điện thoại di động và 10 sau khi việc sử dụng điện thoại trở lên phổ
biến, nhóm phân tích cho biết thêm.
David Spiegelhalter, Giáo sư của khoa Hiểu biết công về các rủi ro tại
đại học Cambridge, người không tham gia vào nghiên cứu này cho biết:
“Đây là một vấn đề rất khó nghiên cứu”.
“Ngoài những hạn chế của các chứng cứ, báo cáo này còn cho thấy các rủi
ro dường như là quá nhỏ vì vậy rất khó phát hiện ra chúng- thậm chí
trong một số lượng lớn người hiện đang sử dụng điện thoại di động”.
Ông Swerdlow là giám đốc Ban thường trực dịch tễ học của Ủy ban Quốc Tế
về Phòng chống Phóng xạ phi Ion hóa. Ủy ban này là một tổ chức quốc tế
được WHO công nhận, nhằm đưa ra các hướng dẫn hạn chế phóng xạ phi ion
hóa.
Vì điện thoại di động đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong
đời sống hàng ngày, no được rất nhiều người sử dụng để lướt web cũng
như trao đổi, nên các chuyên gia cho rằng mối đe dọa về sức khỏe dường
như không thể ngăn mọi người dừng sử dụng chúng.
Phạm Khánh (Theo ICTnews/Reuters